Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các lĩnh vực của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của BLHS thì phải bị xử lý hình sự. Một người sẽ chỉ bị coi là tội phạm khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Vậy cấu thành tội phạm là gì, các yếu tố và phân loại cấu thành tội phạm ra sao sẽ được Luật sư tư vấn luật hình sự – Cộng đồng pháp luật chia sẻ qua bài viết dưới đây.

Cấu thành tội phạm là gì?
Cấu thành tội phạm có thể hiểu là những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau hợp thành tội phạm. Cụ thể theo khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm bao gồm 4 yếu tố đó là mặt chủ thể của tội phạm, mặt khách thể của tội phạm, mặt chủ quan cuả tội phạm và mặt khách quan của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi trách nhiệm theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội.
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm hình sự của một người nếu thực hiện hành vi phạm tội. Theo đó, năng lực trách nhiệm hình sự được xác nhận dựa trên 2 cơ sở cơ bản gồm:
Thứ nhất, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có năng lực nhận thức và năng lực điều kiện hành vi theo đòi hỏi của xã hội, hay nói cách khác là không ở trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội quy định tại Điều 21 BLHS. Cụ thể, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Thứ hai, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 BLHS, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 BLHS.
Mặt chủ quan của tội phạm
Nếu mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì những hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội chính là mặt chủ quan.
Yếu tố lỗi
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội khi mà người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội khi mà người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý bao gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi của người thực hiện hành vi phạm tôi khi mà người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội khi mà người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Về động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Động cơ phạm tội thường không được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản nhưng khi động cơ phạm tội có tính đặc trưng cho tội phạm nhất định và là dấu hiệu phân biệt tội này với các tội khác hoặc với trường hợp không phải tội phạm thì nó phải được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội đó như động cơ vụ lợi ở tội sử dụng tài sản trái phép hay động cơ phòng vệ, động cơ bắt giữ người phạm tội ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội… Động cơ phạm tội còn có thể được phản ánh trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ cũng như còn có thể được xem xét là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.
Về mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý (trực tiếp).
Chỉ trong những trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì mới xem xét về mục đích phạm tội vì chỉ trong trường hợp này người phạm tội mới mong muốn gây ra tội phạm để đạt được những mục đích nhất định của bản thân. Trong những trường hợp mục đích phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm thì mục đích phạm tội sẽ trở thành dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên mục đích phạm tội không được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Ở hầu hết các cấu thành tội phạm vật chất, mục đích phạm tội đều được thể hiện qua việc mô tả hậu quả thiệt hại còn ở hầu hết cấu thành tội phạm hình thức, mục đích tội phạm được thể hiện qua việc mô tả hành vi phạm tội.
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo về và bị tội phạm xâm hại. Những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đã được quy định cụ thể tại Điều 8 BLHS. Khi những quan hệ đó bị xâm hại bởi tội phạm và hành vi xâm phạm có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên bị coi là tội phạm thì quan hệ xã hội đó được coi là khách thể của tội phạm.
Có các loại khách thể của tội phạm như sau:
- Khách thể chung tội phạm: là hệ thống các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
- Khách thể loại của tội phạm: là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm tội phạm xâm hại.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm: là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm hại mà sự xâm hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó.
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Cụ thể, mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
Hành vi khách quan có tính gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi khách quan được hiểu là biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới hình thức cụ thể nhằm đạt mục đích có chủ định và mong muốn. Hành vi khách quan có thể được biểu hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động là hình thức của hành vi khách quan mà trong đó chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động là hình thức của hành vi khách quan mà trong đó chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm việc đó. Ngoài ra, còn có các điều kiện bên ngoài gắn liền với hành vi khách quan như công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…
Hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi khách quan gây ra. Hậu quả thiệt hại là các thiệt hại do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự và cũng là khách thể của tội phạm.
Giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại phải có mối quan hệ nhân quả với nhau được thể hiện qua những căn cứ như sau: Hành vi khách quan phải xảy ra trước hậu quả thiệt hại về mặt thời gian; Hành vi khách quan độc lập hoặc trong sự tổng hợp với một hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả thiệt hại; Hậu quả thiệt hại đã xảy ra là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan.

Phân loại cấu thành tội phạm
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan thì cấu thành tội phạm được chia thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức. Điểm khác nhau giữa cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức chính là việc trong cấu thành tội phạm có mô tả dấu hiệu hậu quả thiệt hại hay không.
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà trong đó có các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra.
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm mà trong đó có dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi khách quan mà không có dấu hiệu hậu quả thiệt hại.
Ngoài ra còn có cấu thành tội phạm hỗn hợp là cấu thành tội phạm mà trong đó dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.
Luật sư tư vấn về các yếu tố cấu thành tội phạm
Trong bài viết trên, chúng tôi đã chia sẻ những vấn đề liên quan về cấu thành tội phạm. Hi vọng những thông tin trên sẽ có ích cho bạn đọc trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật. Nếu có những câu hỏi cần trao đổi thêm hoặc có những vướng mắc pháp lý khác cần được giải đáp và hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi qua phương thức sau:
Hotline: 0865.504.269
Email: congdongphapluat.ls@gmail.com
Ngoài ra, bạn có thể truy cập Cộng đồng pháp luật để tham khảo thêm các thông tin về thủ tục xóa án tích, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cho vay nặng lãi,…